Qua những năm triển khai và thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng đã đem lại một số thành tựu đáng kể. Cụ thể góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng góp phần khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu kinh tế. Theo qui định của Luật thuế giá trị gia tăng hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào thực chất là nhà nước trợ giá cho hàng xuất khẩu nên đã giúp doanh nghiệp tập trung được nguồn hàng để xuất khẩu và có điều kiện cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Trong năm 1999 số tiền được hoàn tăng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoảng 2.700 tỷ đồng; năm 2000 là 5.000 tỷ đồng.

Các bạn có thể xem thêm các dịch vụ luận văn của luanvan1080.com :
+ nhận làm luận văn cao học
+ làm tiểu luận thuê

Vì vậy, trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị hạn chế, giá xuất khẩu giảm nhưng tổng giá trị xuất khẩu của nước ta vẫn tăng so với năm 1998 là 23.18%; năm 2000 tăng 21.3%. Ngoài việc được hoàn thuế giá trị gia tăng , các dự án đầu tư có giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt trên 30% tổng giá trị hàng hoá còn được ưu đãi hưởng thuế suất thuế TNDN 25%; nếu có giá trị hàng hoá xuất khẩu trên 50% tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu được miễn thuế thu nhập bổ sung đã tạo điều kiện thuận lợi về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu. Luật thuế giá trị gia tăng khuyến khích việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu và xuất khẩu thay vì luật thuế cũ khuyến khích sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, đặc biệt luật thuế giá trị gia tăng đã khuyến khích sản xuất, kinh doanh những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh: Nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ.

Đặc biệt luật thuế giá trị gia tăng góp phần đến công tác quản lý của doanh nghiệp tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán, kế toán và thúc đẩy việc mua bán hoá đơn giá trị gia tăng ở các doanh nghiệp. Do yêu cầu của việc kê khai thuế giá trị gia tăng , khấu trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập của doanh nghiệp nên những người làm công tác quản lý kinh doanh đã bắt đầu trú trọng đến công tác mở sổ kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hoá đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cơ quan chức năng và cơ quan thuế từng bước nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.