Cách xét nghiệm sùi mào gà
Bệnh sùi mào gà là một căn bệnh xã hội do virus Humapopilloma (HPV) gây nên, lây truyền chủ yếu qua con đường tình dục. Sau khi lây bệnh khoảng từ 2-9 tháng, bệnh bắt đầu bằng những sùi nhỏ màu hồng nhạt, mềm cao lên như những nhú gai, đường kính khoảng 1-2 mm, bề mặt mềm. Về sau những u nhú này phát triển thành những gai hoặc những lá chiều dài có thể đến vài cm, liên kết với nhau thành một mảng rộng nhìn giống như mào gà hoặc hoa súp lơ, giữa các nhú gai có thể ấn ra mủ. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sùi mào gà gây nhiễm khuẩn, chảy máu, cản trở giao hợp. Trong đó biến chứng nguy hiểm nhất của sùi mào gà là gây ung thư âm hộ, âm đạo và cổ tử cung. bi sui mao ga nen an gi

Xét nghiệm sùi mào gà như thế nào?
Phương pháp xét nghiệm để chẩn đoán bệnh sùi mào gà đã có từ lâu. Ban đầu, George Papanicolaou đưa ra phương pháp PAP’s smear là phương pháp tế bào học nhằm phát hiện những bất thường của tế bào biểu mô cổ tử cung để phát hiện sớm ung thư cổ tử cung. Dựa vào kết quả phân tích hình thái học chi tiết, người ta cho rằng: dấu hiệu của tế bào bị nhiễm virus HPV là nó sẽ bị biến đổi thành các dạng tế bào đa nhân, tế bào đa nhân khổng lồ, hoặc nhân teo lại, hay có thể tìm thấy tế bào bóng, tế bào có vòng sáng quanh nhân….
Hiện nay, để chẩn đoán bệnh sùi mào gà, người ta làm xét nghiệm như sau:
1. Xét nghiệm dịch
Đối với các trường hợp bị bệnh sùi mào gà, thường thì virus sùi mào gà có chứa trong dịch của người bệnh (dịch âm đạo ở nữ giới và dịch niệu đạo ở nam giới). Nếu người bệnh đi xét nghiệm, bác sĩ có thể sẽ yêu cầu lấy dịch để kiểm tra.
Xét nghiệm sùi mào gà như thế nào?
Xét nghiệm bệnh sùi mào gà như thế nào?
2. Xét nghiệm mô bệnh phẩm được lấy từ các nốt sùi mào gà
Phương pháp này thường được áp dụng cho những trường hợp đã xuất hiện các nốt sùi. Mô bệnh phẩm sẽ được các bác sĩ lấy hoặc do người bệnh tự lấy. Sau khi được lấy xong, nó được đem đi làm xét nghiệm thử phản ứng PCA để xác định là bị nhiễm HPV type nào.
Với các mẫu bệnh phẩm được lấy từ âm đạo, cổ tử cung hoặc mảnh sinh thiết cổ tử cung, người ta thường dùng kỹ thuật PCR để biết người bệnh có nhiễm HPV hay không, nếu có thì là nhóm nào, nguy cơ thấp hay cao. Ngày nay, xét nghiệm này được khuyến cáo sử dụng kết hợp với xét nghiệm PAP’s smear nhằm nâng cao khả năng sàng lọc các trường hợp nghi ngờ, giúp theo dõi bệnh chặt chẽ hơn và có hiệu quả thật sự trong tầm soát ung thư cổ tử cung.