Tài nguyên đối với các lọai hình có Nét nổi bật nổi bật riêng – ví dụ: đối với khách du lịch tỉnh An Giang tham quan Của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên là những danh lam thắng cảnh (tự nhiên, văn hóa, lịch sử), đối với du lịch tỉnh An Giang chữa bệnh (người ta quan tâm đến nước khoáng hoặc bùn chữa bệnh); đối với du lịch tỉnh An Giang thể thao là nơi có đồi núi mạo hiểm như ghềnh, thác, đèo, núi cao…; đối với du lịch tỉnh An Giang tìm hiểu văn hóa thì đối tượng là các lễ hội, các phong tục truyền thống, các làng nghề…
Nét nổi bật của Tài nguyên du lịch tỉnh An Giang
• Của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên du lịch tỉnh An Giang có tính phong phú và đa dạng.
• Của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên du lịch tỉnh An Giang có sức hấp dẫn đối với du khách.
• Tài nguyên du lịch vùng đất An Giang có thời gian khai thác khác nhau và tạo nên tính mùa vụ trong du lịch vùng đất An Giang
• Của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên du lịch tỉnh An Giang được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch tỉnh An Giang.
• Của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên du lịch vùng đất An Giang có thể sử dụng được nhiều lần.
Vai trò của Tài nguyên du lịch tỉnh An Giang
• Là yếu tố cơ bản để tạo nên sản phẩm du lịch tỉnh An Giang.
• Là cơ sở quan trọng để tạo nên các loại hình du lịch tỉnh An Giang.
• Là bộ phận cấu thành quan trọng của tổ chức lãnh thổ du lịch vùng đất An Giang.
Phân loại Tài nguyên du lịch vùng đất An Giang
Tài nguyên du lịch vùng đất An Giang rất phong phú và đa dạng; được chia làm 2 nhóm: Của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên du lịch vùng đất An Giang tự nhiên và Của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên du lịch tỉnh An Giang nhân văn.
 Của cải vật chất có sẵn trong tự nhiên du lịch vùng đất An Giang tự nhiên: là các đối tượng, hiện tượng trong môi trường tự nhiên được sử dụng cho mục đích du lịch vùng đất An Giang, bao gồm: cấu tạo đất, khí hậu, nước, sinh vật.
• cấu tạo đất
Đối với hoạt động du lịch vùng đất An Giang, các dạng đồi núi tạo nền cho phong cảnh. Đặc điểm hình thái của đất đai (các dấu hiệu bên ngoài của đồi núi) và các dạng cấu tạo đất đặc biệt có sức hấp dẫn đối với du khách, như các dạng cấu tạo đất núi, đất đai Karst, các kiểu đồi núi ven bờ - có giá trị phục vụ cho nhiều loại hình du lịch vùng đất An Giang.


Kiểu cấu tạo đất Karst được tạo thành do sự lưu thông của nước trong đá dễ hòa tan (đá vôi Đôlômit, đá phấn, thạch cao…). Những kiểu Karst có ý nghĩa đối với du lịch tỉnh An Giang là hang động Karst, các kiểu Karst ngập nước (Vịnh Hạ Long), kiểu Karst đồng bằng (vùng Ninh Bình).
Kiểu đất đai ven biển, hải đảo, đới bờ và các kho chứa nước (đại dương, biển, sông, hồ…) cũng có ý nghĩa quan trọng đối với du lịch tỉnh An Giang. cấu tạo đất đới bờ có thể tận dụng khai thác du lịch vùng đất An Giang theo chuyên đề khoa học, nghỉ ngơi an dưỡng, tắm biển, thể thao nước…
• Khí hậu
Có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức du lịch vùng đất An Giang qua khí hậu sinh học. Những tiêu chí đáng chú ý là nhiệt độ, độ ẩm không khí và các yếu tố khác như gió, lượng mưa, thành phần lý hóa của không khí, áp suất của khí quyển, ánh nắng mặt trời và các hiện tựơng thời tiết đặc biệt khác.
1.1.1. CHỨC NĂNG DU LỊCH
 Chức năng xã hội: du lịch có ý nghĩa quan trọng. Nó thể hiện trước hết vai trò của du lịch trong việc gìn giữ, hồi phục sức khỏe và tăng cường sức sống của con người. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động cho người dân. Mặt khác, ngành du lịch tạo thêm việc làm cho người lao động. Hiện nay, trên thế giới có trên khoảng 204 triệu người lao động trong ngành du lịch (chiếm 10,6% lực lượng của thế giới) và năm 2005 du lịch và những ngành liên quan đã tạo thêm 114 triệu việc làm. Ở Việt Nam, có 220.000 lao động làm việc trực tiếp trong ngành du lịch (năm 2005), dự kiến đến 2010 sẽ có 350.000 lao động làm việc trực tiếp trong ngành du lịch.[25]
Thông qua du lịch con người được được thay đổi bởi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc mới. Đồng thời góp phần mở mang kiến thức, đáp ứng lòng ham hiểu biết về thiên nhiên và xã hội.
 chức năng kinh tế: du lịch góp phần làm tăng tổng sản phẩm trong nước. Trên thế giới - theo John Naisbitt, du lịch (bản thân ngành du lịch và những ngành có liên quan)





là những ngành có đóng góp to lớn cho nền kinh tế thế giới với tổng sản phẩm đạt gần
3.400 tỷ USD (chiếm 10.2 % GNP tòan cầu), nộp 655 tỷUSD tiền thuế. Ở Việt Nam, năm có doanh thu cao nhất từ du lịch đạt 9500 tỷ đồng (1996).[21]
Mặt khác, chức năng kinh tế cho du lịch có liên quan đến vai trò của con người như là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Nó góp phần vào việc phục hồi sức khỏe cũng như khả năng lao động và đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ rệt.
Xem thêm du lịch núi Cấm An Giang
 Chức năng chính trị - văn hóa: du lịch là nhân tố hợp tác quốc tế. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau.

Du lịch còn giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc.
Xem thêm mùa xoài tinh biên an giang
Chức năng sinh thái: Du lịch là nhân tố tác động kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi chính vì môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và các hoạt động của con người. Nhu cầu du lịch đòi hỏi có những biện pháp chính sách hợp lí bảo vệ và phát triển môi trường.