Bản chất tên thương hiệu

Một số người cứ cho rằng những từ ngữ không bỏ dấu và phát âm hơi "tây" bị cho là "tiếng nước ngoài". Thật ra về bản chất "tên thương hiệu" là sự phản ảnh của hội nhập kinh tế rất cao. Yêu cầu một cái tên thương hiệu mạnh phải thoả mãn ít nhất các yếu tố (1) dễ đọc dễ nhớ với nhiều người ở các trình độ và quốc gia khác nhau, và (2) không bị trùng với những cái tên hiện có đã được bảo hộ.

Về nguyên tắc, các quy định dưới luật không được mâu thuẫn với pháp luật sở hữu nhãn hiệu hàng hoá, là một hệ thống luật pháp mang tính quốc tế rất cao.

Về bản chất "tên thương hiệu" là một từ có thể dùng như một danh từ riêng và mang tính sáng tạo. Chúng tôi xin phân tích hai khía cạnh hình thức và nội dung.

Về hình thức, với lý do ngày càng có nhiều các từ cơ bản bị trùng lắp, nên người ta luôn luôn sáng tạo những từ mới, đa phần là từ ghép mang âm hưởng quốc tế hoá, chứ không nhất thiết phải là tiếng Anh.

Về bên ý nghĩa sâu sắc, nhiều từ mới thậm chí không nhất thiết phải "có ý nghĩa sâu sắc cụ thể", nổi bật nhất trong lịch sử vẻ vang khi là tên "KODAK" chỉ là một từ ghép không còn mang dấu tích nào cả. suy nghĩ ra một cái brand name không phải khi là chuyện dễ, cũng như bứt phá thương hiệu một tên nổi tiếng không còn khi là chuyện bé dại. Một ví dụ điển hình khác là Hãng Sony. Phải mất 3 năm (1955-1958) để chủ "Tokyo Tsushin Kogyo Kabushai" đổi thành TTK, rồi Soni và Sonni và sau cùng là Sony.

trong tiến trình phát triển, quả đât hy vọng vào một ngôn từ hoàn toàn có thể dùng cộng đồng. Sau vài thập kỷ cổ động nước ngoài Ngữ (Esperanto) chưa thành công, đa số chúng ta tạm gật đầu đồng ý tiếng Anh như chính là ngôn ngữ phổ thông trong công việc giao thương. tuy vậy tiếng Anh không phải khi là ngôn từ nổi bật tại môi trường quả đât. Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp và tiếng China là nhiều ngữ điệu cũng tương đối phổ biến. nhiều nhà hoạt động bởi vậy sẽ đặt Brand Name đi theo Xu thế ngôn từ hơn khi là vì những Tại Sao khác

.

Quốc tế hoá tên thương hiệu không có nghĩa là "đánh mất bản sắc". "Coopmart" được người tiêu dùng tin cậy và đã cùng người tiêu dùng trong nuớc hưởng ứng chương trình "Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao". Những cái tên thương hiệu như POTACHI, IZZI, VINAMIT không nhất thiết phải hoàn toàn là tiếng Anh. Ngay cả tiếng Anh tự nó cũng không ngừng tiến hoá, điển hình là hàng loạt những cái tên mới như Everest, Beatle, Internet... Ngay cả trong lĩnh vực tên thương hiệu cho một thành phố, gần đây cũng xuất hiện một cái tên mới là Joburg, tên mới của thành phố Johannessburg Nam Phi.

Riêng về ‘Bản sắc Thương hiệu Việt’ chúng ta cần nhìn nhận khái quát ngôn ngữ Việt có cả 3 nguồn gốc: Một là, gốc ngôn ngữ thuần Việt vốn đã hình thành cách đây trên 4000 năm; Hai là, ngôn ngữ Hán Việt hình thành trong cả một giai đoạn dài từ thời Bắc Thuộc và Phong Kiến; và Ba là, Ngôn ngữ Latinh hoá từ thời Cận Đại với sự hình thành Chữ Quốc Ngữ mà chúng ta đang dùng... sự kết hợp hài hoà giữa 3 dòng ngôn ngữ này giúp cho sự hình thành Bản sắc Việt và Bản sắc Thương hiệu Việt, trong đó những sự phối ngẫu ngôn ngữ Đông Tây không phải là sự ngoại lai mà đúng hơn đó là một hình thức hội nhập đầy Bản sắc.

Những mô hình "chợ" trong xã hội hiện đại

So với vài ngìn năm trước trong thời trao đổi trực tiếp (barter trade), ngày nay "chợ" rất đa dạng, và dĩ nhiên ngôn ngữ của một quốc gia phát triển sau không thể đủ từ ngữ để diễn dịch, do vậy phải tạm dùng những khái niệm và từ ngữ quốc tế. Chúng ta hãy liệt kê những loại hình "chợ hiện đại" đang phổ biến trên thế giới và xin được nêu bằng chính ngôn ngữ quốc tế thông dụng:


Supermarket (quen dịch là siêu thị): là nơi người mua tự do chọn lựa hàng hoá đã niêm yết giá và mang hàng đến tính tiền tại quầy. Phổ biến và chiếm ưu thế kinh doanh của siêu thị là những mặt hàng tiêu dùng thông thường, kích thước vừa, giá trị không quá lớn, chu kỳ mua sắm ngắn...

Department Store (tạm dịch là trung tâm mua sắm cao cấp): chính là cách thức shop sang trọng. biện pháp tổ chức khác hoàn toàn siêu thị vì chia không gian thành nhiều quầy bán hàng từng quầy bán một thương hiệu khác biệt, phần lớn khi là hàng cao cấp, nhãn hiệu lừng danh, cũng như nhất là có chuyên viên đảm nhận quầy bán hàng. nguyên mẫu này dịch vụ thị hiếu thương mại chất lượng cao, thời trang, mỹ phẩm, nữ trang, quà tặng... một số trong những nơi còn trình diện cả xe hơi, thiết kế bên trong gia chủ.
Plaza (từ gốc Tây Ban Nha khi là quảng trường, trường đấu hay chợ): trong số những thập niên cuối thế kỷ 20, khi cái đặt tên trung tâm thương mại hay siêu thị đi lên nhiều loại hình thương mại dịch vụ trong cùng một khu vực, người Mỹ chuyển qua mệnh danh plaza. như vậy ý nghĩa plaza nguyên thủy là quảng trường hay trường đấu bò (plaza de toros), sang chân thành và ý nghĩa chợ, cũng như bây giờ là nội khu thương mại thư giãn dịch vụ tổng thể cũng như nó cũng không cần tiếng Anh-Mỹ gốc.

Trong những năm gần đây, từ plaza xem ra mốt hơn là những từ khả dĩ mang ý nghĩa tương tự trước đó như commercial center (trung tâm thương mại), shopping center (trung tâm mua sắm), shopping mall hay complex (phức hợp mua sắm ăn uống dịch vụ và giải trí) bởi nó ngắn gọn, dễ đọc và rất thời thượng.


Đọc giả có thể xem thêm ở đây: Department store la gi